VIỆC SINH SẢN NHIỆM MẦU

Việc Sinh Sản Nhiệm Màu

Nghiên Cứu bằng Thông Nhãn về Thai nhi

Geoffrey Hodson

 

Giới Thiệu
C.V. Pink, L.R.C.P., M.R.C.S.

Vào lúc mà lời kêu gọi khẩn thiết về việc làm giảm tử suất của sản phụ và hài nhi cuối cùng được lưu tâm đôi chút, việc xuất bản cuốn sách này là điều hết sức thuận lợi.

Socrates dạy rằng “phần khởi đầu là phần quan trọng nhất trong bất cứ việcchi, đặc biệt nhất là với những gìnon nớt và mỏng manh.” Vào thời của chúng ta Sir Frederick Truby King nói rằng sức khỏe trong mười tám tháng đầu đời (chin tháng trong bụng mẹ và chin tháng sau khi sinh) là điều quan trọng hơn cả. Càng ngày người ta càng nhận biết rằng sự tạo hình thể xác, tình cảm và trí năng đều được vạch sẵn trước khi sinh ra, và quyển sách này cho hiểu biết thú vị về các nét căn bản này.

Những nghiên cứu như vầy giúp cho con người hiểu rõ hơn về sự nhiệm mầu của việc sinh sản, rồi từ đóvun bồi lòng tôn trọng thiên chức làm mẹ, đó chính là dấu hiệu của cộng đồng thật sự văn minh. Nghiên cứu cũng đặc biệt khuyến khích những ai trong chúng ta làm việc có liên quan đến các bà mẹ và em bé.

Cũng cần nhắc thêm là quyển sách này ghi lại sự quan sát chỉ một trường hợp mà thôi, và khó khăn về kỹ thuậtkhiến chuyện không tránh khỏilà khi nghiên cứu thêm, tasẽthấy cósai lầm về chi tiết. Dù sao điều này không hề làm giảm giá trị công trình nghiên cứu.

Khi người có thông nhãn như ông Hodsonlàm việc bên cạnh các nhà khảo sát khoa học, ta thấy chuyện thú vịlà không lâu trước đây thông nhãn đã từng bị coi là tà thuật.

Có lẽtiến bộ trong thuật chữa bịnh thời nay, đi theo hướng có quan tâm đến linh hồn con người hơn là hình thể mà linh hồn cư ngụ. Nếu thực sự là vậy, thì người có thông nhãn sẽ có việc làm giá trị trong một tương lai gần,khigiúp ta hiểu biết về cách làm việc phức tạp của Thiên Nhiên, cho phép ta hiểu rõ hơn và hợp tác với nó.

Tôi hy vọng rằng không bao lâu nữa ông Hodson sẽ cho xuất bản thêm những kết quả nghiên cứu sâu xa hơn của ông.

C.V.Pink,
London, 1929

 

Lời Mở Đầu của Tác Giả

   Bài ghi lại này về sự khảo sát bằng thông nhãn, được xuất bản với hy vọng là nó sẽ  góp thêm vào những kiến thức tổng quát về đề tài làm cha mẹ, qua việc khảo sát theo quan điểm của TTH.

   Một trong những chuyện đang xảy ra trong giai đoạn chuyển tiếp hiện nay, từ nền văn minh cũ sang cái mới là sự xuất hiện của giống dân mới. Theo sự chỉ dạy của TTH thì người nam và nữ của giống dân mới này, là những người tiên phong và tạo dựng nền văn minh mới. TTH dạỵ rằng diễn trình của cuộc tiến hóa có tính song đôi, về một mặt nó là việc khai mở sự sống và tâm thức, và mặt kia là là sự phát triển từ từ hướng đến sự toàn thiện của vật chất và hình thể. Chuyện lý tưởng nếu hai đường phát triển này tiến bước nhịp nhàng và bổ sung cho nhau, để tâm thức đang khai mở có thể tìm được chất liệu thích hợp hầutạo những thể mà nó sẽ tái sinh vào.

   Nếu cái nhìn này được chấp nhận và áp dụng vào đời sống con người,lập tức ta sẽ thấy chuyện quan trọng nhất là các thể của trẻ em trong thời đại mới, phải được tạo bằng chất liệu tốt đẹp nhất, được thụ thai, sinh ra và nuôi dưỡng trong những điều kiện thuận lợi nhất có thể có được.

   Nhiệm vụ và trách nhiệm của ai làm cha mẹ vì thế rất nặng nề. Linh hồn tiến hóa, người sẽ lãnh đạo và hướng dẫn nhân loại trong việc tạo dựng nên một nền văn minh mới, cần các thể thanh khiết, nhạy cảm, thanh cao và khỏe mạnh. Những cơ thể như vậy chỉ có thể có được do cha mẹ nhìn ra trách nhiệm của mình đối với nhân loại. Cha mẹ của trẻ thời tân kỷ nguyên phải được gợi hứng bằng những lý tưởng tinh thần cao cả nhất, và phải nhận biết rằng khả năng sáng tạo của con người là một đặc tính thiêng liêng

   Nỗ lực nghiên cứu bằng thông nhãn về sự tạo hình và phát triển của thể trí, tình cảm và xác thân của con người lúc còn trong bụng mẹ - liên quan đến kết quả mà quyển sách này ghi lại - cho thấy tầm quan trọng lớn lao của quan điểm trí tuệ và tình cảm của cha mẹ.

   Hôn nhân và vai trò làm cha mẹ quả thực là bản chất thiêng liêng; việc làm mẹ là điều thiêng liêng cần được tôn kính. Con trẻ cần được sinh ra từ sự hòa hợp do tình thương sâu đậm và không ích kỷ nhất, cùng với những lý tưởng tinh thần cao cả nhất có thể có được, bởi vì chỉ như vậy, và chỉ như vậy mà thôi, sự hứa hẹn về một nhân loại cao cả hơn trong tương lai gần, và trẻ em của sắc dân mới sinh ra, mới có thể thành tựu.

 

Phần I
Chương I
Con Người

   Để ý niệm theo TTH về mục đích và tiến trình của việc đầu thai được hiểu rõ ràng, ta cần nói sơ qua các chỉ dạy của Minh Triết Cổ Xưa về đề tài này.

   Chúng ta đang sống trong thời đại mà phong tục Tây phương xem con người chỉ là thân xác. Linh hồn có lẽ được coi như là chiếc bong bóng bị cột, trôi lơ lửng đâu đó trong khoảng không vô hình trên đầu thân thể. Ý niệm tổng quát của những ai chịu nghĩ đến linh hồn cho rằng con người ‘là’ thể xác và ‘có’ một linh hồn.TTH đảo ngược lại nhận xét đó, nói rằng con người linh hồn và ‘có' một thể xác. Thánh Paul diễn tả rằng: “ Nếu có một thể xác thì cũng có một thể tinh thần”. TTH định nghĩa về con người là “Con người là một thực thể mà trong bất cứ phần nào của vũ trụ, họ có phần tinh thần cao nhất và vật chất thấp nhất kết hợp với nhau qua trí thông minh”. Minh Triết Cổ Xưa mà TTH ngày nay là đại diện, dạy rằng chân ngã của người nằm ẩn sâu dưới nhiều lớp vật chất, lớp này rồi lớp kia có mức đậm đặc khác nhau.

   Diễn trình của sự sinh sản thì hết sức phức tạp, vì ngoài thể xác con người còn được sinh vào nhiều thể khác. Phần mà qua đó con người biểu lộ tình cảm có thể được gọi là thể tình cảm, và phần mà qua đó tư tưởng họ  được biểu lộ gọi là thể trí. Còn chính người đó, con người thật, thì ngụ tại một nơi cao và thanh nhẹ hơn, trong thể được gọi là căn thể. Linh hồn thật sự của con người do đó cư ngụ ở cõi thượng trí, và ở đây các đặc tính thiêng liêng Ý Chí, Minh Triết và Trí Tuệ biểu lộ trong con người tự do nhiều hơn là ở những cõi thấp, nơi mà sự đậm đặc của vật chất che khuất làm ta không nhìn thấy được chúng.

   Mục đích của sự tiến hóa nơi con người - cũng như của vũ trụ - là các đặc tính này của Ba Ngôi được chiếu sáng càng ngày càng rực rỡ và mạnh mẽ. Phương pháp để tiến hóa là một chuỗi  sinh và tử liên tiếp nhau trong ba cõi trí, tình cảm và hồng trần.

   Con người là người con hoang đàng trong dụ ngôn của kinh thánh. Mỗi người rời ngôi nhà tinh thần của mình để đi ra và đi xuống sâu vào cõi vật chất, khoác vào mình hết thể này tới thể khác cho tới khi xuống đến nơi dày đặc nhất. Kinh thánh ghi:
– Anh đói lòng và phải ăn cám heo.
Cuối cùng, sau mấy trăm lần đầu thai như vậy, con người bắt đầu học bài học về cái không thực tại và sự vô thường của mọi vui thú vật chất. Anh nẩy sinh lòng ao ước niềm vui và sự bình an lâu dài và trường cửu hơn. Rồi anh nói.
– Tôi sẽ chỗi dậy đi về với Cha, và sẽ nói với ông:  Lạy Cha,con có tội đối với trời và cha. Con không đáng là con của cha.
Anh học được rằng “thiên đường” chỉ được “có lại" khi anh làm cho mình thoát khỏi những trói buộc của dục vọng, chúng đã cầm giữ anh trong cõi vật chất. Anh phải cởi bỏ xích xiềng từng cái một khỏi tay chân, phải làm chủ mỗi một điểm yếu của xác thịt, chiến thắng và thanh tẩy từng dục vọng, kiểm soát và hoàn thiện từng ý nghĩ.

   Ánh sáng của con người thật, cái ngã bất tử, khi ấy bắt đầu chiếu rọi qua các thể. Một chút sức mạnh, sự bình an và niềm hoan lạc là đặc tính của căn nhà thực của anh nơi cõi cao, bắt đầu được nhận biết và kinh nghiệm nơi cõi thấp. Đó là lúc con người bắt đầu đặt chân vào “con đường trở về” mà sẽ dẫn anh hoàn toàn thoát ra khỏi mọi phiền não cõi trần, mọi giới hạn của thể chất, vào hạnh phúc và sự bình an vĩnh cửu. Sau rốt anh được chào đón ở cuối cuộc hành trình, công việc của anh hoàn tất và mỗi bài học của con người được học xong. Con người đứng cạnh Cha ‘trọn lành như Cha trọn lành trên trời’.

 

Chương II
Thuyết về Khả Năng Tạo Hình

Phương pháp truyền giống nhờ hai phái tính qua bao thời đại, cho thấy đó là nguồn có tiềm năng gây đau khổ cho nhân loại,và học viên huyền bí học có thể hỏi những kết quả tốt lành mà phương cách này đem lại, có giá trị đủhầu quân bình những điều xấu mà nó gây ra. Dù vậy, tìm hiểu sâu hơn vào đề tài này theo quan điểm TTH, cho ta thấy rằng không phải phương pháp liên kết với việc truyền giống đã sinh ra điều xấu, mà đúng hơn là là việc lạm dụng nó, là nguồn gốc của rất nhiều tệ hại nơi con người.

Các tệ hại này nổi bật vào thời điểm hiện giờ, nên có vẻ như điều quan trọng nhất là thái độ của chúng ta về trọn câu hỏi về tình dục có nên thay đổi mạnh mẽ. Ta cần có nỗ lực để loại bỏ điều xấu xa, tồi bại và không trong sạch đã gắn liền với khả năng sinh sản.

Khả năng sinh sản là một trong những đặc tính thiêng liêng nhất mà con người có được. Khi sử dụng khả năng này, con người diễn ra ở mức nhỏ là tiểu vũ trụ màn kịch vĩ đại về sự sáng tạo trong đại vũ trụ. Sự hòa hợp giữa sinh vật nam và nữ là phản ảnh ở cõi trần về sự kết hợp của ngôi một và ba của Thương đế, sinh ra ngôi hai. Đây là hành động thiêng liêng của diễn trình vĩ đại là sự sáng tạo vũ trụ. Khi nó được thực hiện với động lực thanh khiết và tình thương lẫn nhau, hai nửa của Thượng đế - tượng trưng qua người nam và nữ - được kết hợp.

Lý tưởng mà nói thì sự kết hợp này nên xảy ra ở mọi cõi trong thiên nhiên mà con người biểu lộ. Khi con người tiến hóa, mức kết hợp này dần dần được nâng cao hơn và cao hơn nữa. Nơi người sơ khai nó phần lớn có tính thể chất và tình cảm. Nơi người văn minh thì có thêm trí tuệ và có sự hòa hợp trí tuệ phần nào. Rồi người hiểu biết mà tâm thức bắt đầu có trực giác, nên nhắm tới và đạt sự kết hợp ở cõi tinh thần cũng như ở mọi cảnh thấp hơn. Sự kết hợp lý tưởng có được khi hai loạt nguyên lý của con người phối hợp với nhau, rung động cùng nhịp rồi hòa thành một.

Khi những bộ phận thuộc hai cực đối nhau mà hòa hợp thì có lực tuôn xuống. Mức độ và phẩm chất của năng lực này tùy thuộc vào mức tâm thức mà sự kết hợp đạt được. Nơi con người, năng lực tuôn xuống làm tâm thức mở rộng; kết quả này cũng có thể đạt được ở cùng mức độ khi có sự hòa hợp tinh thần thay vì thân xác, theo tính chất và động lực của nó. Để đạt được sự lợi ích lớn nhất có thể được về việc này, tâm thức phải hướng từ cõi thế về cõi tinh thần. Khi ấy mức độ cao nhất của năng lực sẽ tuôn ra, tâm thức mở rộng tới hết mức có thể đạt được, và ta có điều kiện tốt nhất để tạo các thể cho linh hồn tái sinh.

Ở mức hiểu biết và tiến triển hiện tại của con người, ta không thể phủ nhận rằng lối sinh sản bằngsự giao hợp của hai phái, là nguồn gốc gây ra khó khăn to tát cho trọn nhân loại. Dù vậy, nếu ta chấp nhận ý tưởng rằng sự kết hợp của trí tuệ và tinh thần cần đi chung với sự kết hợp của thể xác, ta sẽ thấy không chừng nó được đặt ra hầu giúp cho nhân loại có sự mở rộng tâm thức, và nhận thức về sự kết hợp, bằng cách thực sự kinh nghiệm nó qua hành động truyền giống thường xuyên lặp lại.

Lạm dụng tình dục là điều gần như không thể tránh được, và phải thấy trước. Dù có khổ não lan rộng do việc lạm dụng gây ra, phương pháp ấy đóng vai trò lớn trong sự phát triển con người, và chắc chắn còn đòng một vai trò lớn hơn khi các khả hữu cao hơn của nó được thực hiện.

Nghiên cứu bằng thông nhãn gợi ý là cái nguyên lý, theo đó sự hòa điệu hoàn toàn của một cặp có cực đối nghịch sẽ tuôn ra năng lực ở cõi cao, tác động trong khắp thiên nhiên. Thí dụ sự sống trong cây cỏ nhận được kích thích rõ ràng, từ lực của sự sống hành tinh đi vào cây mỗi khi có sự thụ tinh xảy ra. Đáp ứng trên đẩy mạnh sự tiến hóa của nó bất cứ khi nào cây kinh nghiệm điều ấy. Ngày nay bông hoa có sự nhạy cảm và phát triển cao khởi sự đáp ứng nhiều hơn với kích thích của lực đi xuống đó. Trong tương lai, khả năng đáp ứng của thảo mộc và những loài khác trong thiên nhiên, tự nhiên sẽ có khuynh hướng thành nhiều hơn và có ngã thức hơn.

Việc chấp nhận lý thuyết  nàyvề tính dục đặt con người vào vị trí có trách nhiệm nghiêm trọng,về việc dùng và lạm dụng khả năng tạo hình. Chỉ có con người, so với tất cả mọi loài khác trong thiên nhiên, là có ngã thức và tự hướng dẫn mình trong việc thực hiện  vai trò truyền giống. Việc lạm dụng, vì không biết ý nghĩa tinh thần bên trong về các lực to tát can dự vào hành động sinh sản, gây ra hệ quả đáng ngạicho cả cá nhân và nhân loại. Sức khỏe về thể chất, trí tuệ, đạo đức đều bị hư hại. Kết quả là sự băng hoại của khả năng tinh thần, trí tuệ và thể chất.  Sự tinh tế của mọi quan năng nơi con người bị cùn nhụt. Tính hăng hái, chính xác, sâu sắc, tinh anh lẽ ra phải là đặc tính của con người đang tiến hóa thành thần nhân, dần dần bị thay bằng sự tầm thường với trí tuệ ù lì.

Các thể mới - do ai có thói quen lạm dụng khả năng tạo hình của mình sinh ra - thất bại đáng kể trong việc thành đền thờ thích hợp cho thần nhân - là người đầu thai vào chúng. Bầu không khí tâm linh trong nhà và trong vùng có các hành vi này,tác động không những lên các trẻ đang lớn, là kẻ rất nhạy cảm với các ảnh hưởng vô hình như thế, mà luôn tất cả cho những người ở trong vòng của các tỏa lực không trong sạch đó.

Các điều kiện này tăng thêm cường độ do sự hiện diện của vài loại tinh linh tắm mình trong bầu không khí đó, là môi trường hết sức dễ chịu và đầy kích thích đối với chúng. Tinh linh làm vùng hóa rộng lớn, đậm đặc và mạnh hơn, ảnh hưởng đến tư tưởng, cảm xúc và sự sống của người khác. Ta sẽ hiểu rõ hơn ý nghĩa của việc này, khi xem xét tiến trình mà các thể thanh và thể xác của trẻ được tạo ra ở một chương sau.

Hệ quả của việc lạm dụng khả năng tạo hình do vô minh nghiêm trọng là vậy, mà hệ quả của việc tiếp tục lạm dụng ấy sau khi đã có hiểu biết, thì còn nghiêm trọng hơn gần như vô kể. Vì thế, chuyện quan trọng tột cùng cho sự tiến hóa của cá nhân, tiến bộ của nhân loại, và sự tạo dựng nền văn minh mới, là lý tưởng cho sự thanh khiết về mặt tình dục cần được chấp nhận, và áp dụng cho tất cả những ai quan tâm đến nhân loại. Việc kết hợp - sự biểu lộ của tình yêu thanh khiết nhất - có thể khiến đời sống và tâm thức thành cao thượng và cao cả hơn, cho những ai đạt được sự tự chủ và sự biểu lộ thanh khiết nhất tình yêu cho nhau. Còn sự kết hợp xảy ra chỉ để thỏa mãn si mê của thú tính sẽ làm đồi bại cả xác thân và tâm trí. Nó làm nhơ lý tưởng về người nữ trong trắng và thanh nhã, điều đạt tới sự biểu lộ cao nhất ở cõi trần qua việc làm mẹ.

Mỗi người nữ là sự thể hiện và đại diện cho nữ tính của thiêng liêng. Vào lúc sinh nở người mẹ diễn phần của mình trong diễn trình tạo tác bất tận. Đứa trẻ mà bà sinh ra đời là tiểu vũ trụ của bà. Vì vậy làm cha mẹ là điều thiêng liêng mà không phải là chuyện thường để coi nhẹ.

Khi có hiểu biết nhiều hơn, cũng như  khi có được tự chủ và tình yêu tăng nhiều hơn nữa, có lòng xả kỷ và mỹ lệ, lý tưởng ấy một lần nữa quản trị cuộc đời của người nam và nữ. Khi ấy một sắc dân tốt đẹp được sinh ra, chói sáng hơn ngay cả nét đẹp bất tử của người cổ Hy Lạp. Kiến thức và sức mạnh của giống dân sau này sẽ thêm vào nét mỹ lệ của người Hy Lạp, và cùng với nó sẽ tạo thành ba ngôi căn bản mà chỉ từ đó, một nhân loại hoàn mỹ và một nền văn minh toàn hảo có thể được thành.

 

Phần II
Cách Tạo Những Thể

Dữ kiện trong những chương sau này có được do việc dùng thông nhãn để nghiên cứu. Ta tìm cách xem xét các thể ở những giai đoạn khác nhau trong tiến trình đầu thai, bắt đầu từ tháng thứ tư.

 

Chương III
Thể Trí Ở Tháng Thứ Tư

Vào tháng thứ tư thể trí mới thấy gần như không màu, đường nét mơ hồ và nói chung có hình bầu dục. Trên bề mặt có mầu trắng đục gợi ý có mầu. Bên trong cho thấy có mầu rất mong manh là vàng nhạt, xanh lá cây, hồng và xanh dương với tím nhạt bao quanh phần trên của bề ngoài.  Những nét rất thoảng nhẹ này có tính gợi ý hơn là màu sắc rõ ràng, là các dự báo về tính chất của thể trí đang được tạo ra.

Những hạt tạo nên trọn thể trí chuyển động mau lẹ và các trung tâm lực hay luân xa chỉ mới xuất hiện chút ít. Bên trong có hình người mờ ảo và thấy có những luân xa còn phôi thai. Luân xa ở đầu đã phát triển rõ, nhất là luân xa đỉnh đầu “Brahmarandra", vùng này có lực tuôn vàoliên tục qua một lỗ hổng trên đỉnh đầu. Ta cũng thấy được các huyệt đạo phôi thai nơi cổ họng, tim, huyệt đan điền và muladhara ở cuối xương sống. Chỉ những luân xa ở đầu là thấy có linh hoạt nhiều, dù ngay cả chúng vẫn chưa thấy là làm phần việc rõ ràng của mình là luân xa. Linh hồn liên tục làm việc kỹ về thể, tuôn lực xuống và truyền vào nguyên tử các lực có sức động đặc biệt.

Trong trường hợp của linh hồn tiến hóa, mứchiểu biếtđáng kể có ý thức được dùng cho tiến trình này. Linh hồn tiến hóa có ý tưởngthật rõ ràng về loại cơ thể nào anh muốn, và thường có quyết tâm mạnh mẽ để được vậy.

Hình dáng tổng quát thể trí còn phôi thai mà ta đang quan sát, là một bong bóng bầu dục mầu trắng đục với một lỗ hổng trên đỉnh. Tuôn qua ngõ này là lực liên tục như một dòng các hạt ánh sáng nhiều màu sáng chói. Ở giữa ‘bong bóng’ là hình người mờ ảo và dòng lực đi xuống tuôn vào đỉnh đầu.

Căn thể, là thể mà linh hồn sắp tái sinh cư ngụ vĩnh viễn ở đó, to hơn nhiều so với thể trí mới này, và có vẻ như thể sau nằm phần nào bên trong thể trước, tựa như nửa phần trên của thể trí trùng với nửa phần dưới của căn thể. Ta thấy ảnh hưởng của chân nhân tuôn vào phần trên của thể trí như đã tả.

Ánh sáng rạng rỡ chói lòa bao trùm trọn hiện tượng, và gia tăng cường độ khi đến gần trung tâm của căn thể. Lực tuôn xuống giữ cho những nguyên tử của thể trí liên tục chuyển động, và khi nó chạm vào vật chất tạo nên thể, nó tạo thành xoáy lực làm các vật chất liên tục bị kéo vào xuyên qua xoáy. Chuyển động này không ảnh hưởng gì đến hình dạng tổng quát, vẫn là hình bầu dục như đã ghi. Tuy hình  người thấy rõ bên trong bầu, cái sau không trống rỗng mà đúng hơn là một khối đặc, trong trẻo, có vật chất chuyển động lẹ làng.

Mỗi nguyên tử của thể đi qua xoáy lực và dòng lực đi xuống tạo nên xoáy, được lực này từ hóa - magnetized, sáng bừng hơn, rồi từ từ mờ xuống khi nó trôi ra tới những phần khác của thể trí. Dòng lực tuôn xuống  làm như có màu thay đổi, nó muốn nói linh hồn chủ ý tạo dựng những khả năng rõ ràng, và từ hóa thể trí bằng những làn rung động rõ rệt.

Có sự tương tác liên tục xảy ra giữa thể trí đang lớn của thai nhi và của người mẹ. Sự liên kết giữa hai bên cho ảnh hưởng là thể mới được ổn định và liền lạc, còn nét tươi sáng và rực rỡ của hào quang thai nhi thêm vẻ sáng cho hào quang người mẹ. So sánh vẻ tương đối cứng chắc và cố định của thể trí già dặn, với tính hết sức mềm dẻo dễ uốn nắn của một thể mới non nớt là điều thú vị.

Bên ngoài vùng sinh hoạt này thấy có vài thiên thần. Một thiên thần làm việc ở cõi trí có vẻ là vị phụ trách việc tạo ra ba thể, và một thiên thần khác hình như dưới quyền, làm việc ở cõi tình cảm. Thiên thần cõi trí như đang cố cho ra ảnh hưởng che chở, chỉ cho phép một số rung động ở mức nào đó từ ngoài đến thể trí mới. Thấy như thiên thần có hiểu biết hoàn toàn về các ảnh hưởng là kết quả của những kiếp trước, là điều chi phối sự tăng trưởng và hình thành của thể trí, tình cảm và xác thân.

Vài phàm ngã trước của linh hồn sẽ đầu thai được thấy trong hào quang của thiên thần. Một cái thấy là đàn ông thời Elisabeth đệ nhất, và dường như lần tái sinh này là tiếp tục cho công việc và sự phát triển của kiếp đó. Tụ chung quanh hình ảnh này của thể xác khi xưa trong hào quang của thiên thần, có nhiều hình ảnh của người nam và nữ khác cùng thời; thấy như hình tượng trưng  cho dây nhân quả đã tạo với nhau. Kẻ mỉm cười, kẻ thì chau mày, kẻ khác dửng dưng. Thái độ và nét biểu lộ của họ có lẽ cho thấy sự liên hệ nhân quả giữa họ với linh hồn ta đang khảo sát việc tái sinh này. Ở mức của căn thể, có một thiên thần cao cấp khác trợ giúp cho sự tái sinh, ngài biết trọn nhân quả và những kiếp trước của linh hồn này. Ngài đưa xuống cho vị thiên thần ở cõi hạ trí phần nhân quả riêng biệtphải trang trải ở kiếp sắp tới đây.

Việc tái sinh ở cõi trí diễn ra với sự hướng dẫn và trông nom như vậy. Những thiên thần cấp dưới làm việc tựa như người chăm lo ngọn lửa trại lớn, liên tục cho chất liệu mới để nuôi dưỡng ngọn lửa. Chất liệu mới này đi vào dòng luân chuyển của thể trí được tả ở trên, rổi đi qua vòng xoáy ốc và được linh hồn làm chuyên biệt.

Ở giai đoạn còn sớm sủa này của việc tái sinh, chưa thấy linh hồn đi vào thể trí một cách hoàn toàn, tuy nó rất tích cực tham dự để tạo thể. Hình mờ nhạt bên trong là sự thể hiện tới một mức nào đó và là vận cụ cho tâm thức của linh hồn, và nó bắt đầu từ từ sử dụng thể.

 

Chương IV
Thể Tình Cảm Ở Tháng Thứ Tư

Công việc của thiên thần ở cõi tình cảm phần lớn là tạo nênvận cụ tốt nhất có thể có được,mà nhân quả và hoàn cảnh cho phép. Các thiên thần ở cõi trí chuyển xuống cho ngài hiểu biết, về tình trạng nhân quả ảnh hưởng đến thể tình cảm. Dầu vậy ngài có được tự do đôi chút, và thiên thần sử dụng hết mọi cơ hội thuận lợi trước khi sinh, và mọi ảnh hưởng tốt lành chung quanh việc tái sinh, để sửa đổi hệ quả của những kiếp trước và làm thể tình cảm được tốt hơn. Không thấy thiên thần tự mình nhúng tay làm việc tạo dựng nào. Điều đó, ta sẽ được thấy thêm sau này, là công việc của các tinh linh thấp hơn.

Thiên thần chăm chút cho thể tình cảm đang lớn với thái độ rõ ràng của bà mẹ, che chở nó hết mình khỏi các ảnh hưởng bất lợi. Ngài để cho từ lực của mình tự do tácđộng lên thể đang nẩy nở, và chia sẻ sinh lực sống động của mình với nó càng nhiều càng tốt. Chẳng hạn, thỉnh thoảng ngài ôm trọn thể tình cảm nhỏ bé vào lòng, phủ hào quang của ngài lên nó và cúi đầu xuống như thể bao trọn nó hoàn toàn mọi bề trong một lúc.

Thiên thần làm việc với một tinh thần khoa học, và dù rất vui thích với công việc và tỏ lòng dịu dàng với em bé, tâm trí của ngài là thận trọng dùng lực để sinh ra kết quả xác định rõ ràng. Khi môi trường cho năng lực tinh thần rõ rệt, nhưlúc người mẹ dự lễ ở nhà thờ hay một buổi họp tinh thần  khác, ngài hấp thụ càng nhiều càng hay năng lực ấy. Rồi thiên thần ôm thể tình cảm đang lớn vào lòng theo cách đã ghi, để năng lực tác động lên trên và đi vào thể, từ hóa nó và sửa đổi bất cứ khuynh hướng nhân quả xấu nào. Do vậy điều kiện được tạo ra khiến có sự đáp ứng dễ hơn với làn rung động cao, và ít hơn với làn rung động thấp.

Trong một trường hợp khác được khảo sát, cả hai cha mẹ đã hành thiền hằng ngày đều đặn nhiều năm. Điều này thấy là có giá trị vô kể và thiên thần tận dụng trọn mức lợi ích này.

Nơi thành phố lớn đông dân cư, công việc chính của thiên thần là che chở thai nhi và thể tình cảm của em khỏi các ảnh hưởng xấu. Ở nơi mà bầu không khí tâm linh rất tệ hại, thiên thần có thể kêu thêm một hay nhiều hơn các huynh đệ của mình để phụ trong việc chăm sóc này.

Thiên thần có thể cho ảnh hưởng gián tiếp trên thể sinh lực và xác thân đậm đặc. Vì vậy thiên thần có thể giảm thiểu hệ quả của tai nạn mà người mẹ bị, hay của môi trường bất lợi ở cõi này, trong vòng giới hạn của nhân quả của linh hồn. Trong trường hợp người mẹ bị chấn động, thí dụ vậy, ngài có thể bao che bào thai một phần nào khỏi người mẹ bằng cách ôm bào thai vào lòng như đã nói, và nhờ thế giảm thiểu ảnh hưởng của sự tương tác quá gần.

Tuy nhiên yếu tố chính trong mọi việc làm của thiên thần, là sự tác động và tuôn sinh lực sống động của ngài lên trên và xuyên qua những thể mà thiên thần có liên quan..

Thể tình cảm của em bé được thấy nằm trong thể tình cảm của người mẹ, và trong trường hợp đang quan sát này, vào tháng thứ năm nó nằm ở khoảng giữa từ một phần ba trên của đùi tới phần dưới xương sườn. Thể nằm chéo, trục nghiêng so với thân hình người mẹ khoảng 45 độ với đường ngang. Đầu trên của trục ở về phía trái. Trông thể giống như một quả trứng nhỏ dài khoảng 30 cm, gần như trắng hoàn toàn và chiếu sáng. Bên trong có hình người bé tí mơ hồ, mà ở giai đoạn này chỉ một phần nào rõ nét mà thôi.

Ta có thể thấy  sức sống linh hồn tuôn vào đỉnh của thể tình cảm, đi xuống dưới vào tâm của đầu. Nó chưa xuống sâu tới điểm tương ứng với phần giữa đầu, nơi nó phình to ra thành hình cầu. Từ nơi này thòng xuống vật như cọng rễ nhỏ, vào tháng thứ năm rễ đã xuống tới cổ họng, nơi đây nó tỏa ra, không phải thành hình cầu mà thành nhánh, thấy có ba nhánh. Rễ với các nhánh vàng óng ánh chiếu sáng, và khi rễ đi sâu hơn vào cơ thể, nó thành màng lưới rồi dần dần tỏa ra càng lúc càng ấn sâu vào khi việc tạo thể diễn ra.

Thể tình cảm chứa đựng xác thân và thể sinh lực, nó thấm nhập và bao chung quanh hai thể ấy. Hai hạt nguyên tử trường tồn của hai thể thanh, vào giai đoạn này nằm bên trong sự mở rộng đầu tiên của dòng sống đi xuống của linh hồn được tả ở trên, tức là ở tâm của đầu, điểm mà sau này cũng là tâm của đầu thể xác của bào thai.

Hào quang của người mẹ thấy không tự do thấm nhập vào hào quang của em bé. Mặc dù có trao đổi qua lại một chút, thể tình cảm của người mẹ tuôn chảy chung quanh bên ngoài thể tình cảm của em bé, và tăng kích thước rõ ràng do có thể đang lớn bên trong.

 

Chương V
Quan Sát Công Việc của Tinh Linh Vào Tháng Thứ Tư

Bào thai chia sẻ sinh lực prana của mẹ, vào thời điểm này lực nói chung tuôn qua nó không theo dòng kênh nào rõ rệt. Phần lớn lực được rút ra từ huyệt đan điền của mẹ tới điểm tương ứng trong bào thai, từ đây lực tuôn ra khắp thai nhi. Tuy nhiên prana tụ lại một chút ở đầu bào thai, còn luân xa lá lách chưa hoạt động vào lúc này. Việc có bào thai bên trong người mẹ hiển nhiên rút lấy sinh lực của bà. Dù vậy bà có thể hấp thu và tiêu hóa một số lượng tương ứng lớn hơn.

Các tinh linh cõi ether cũng cho một lượng sinh lực mà bào thai nhận được, mỗi lần tinh linh đem chất liệu ether vào hình hài đang lớn. Chúng hấp thụ sinh lực trong lúc gom góp chất liệu. Diễn tiến làm thân hình bé tí của chúng sáng lên và nở rộng, và thể sinh lực của bào thai cũng sáng lên ở nơi mà tinh linh tuôn ra các hạt và sinh lực.

Ta thấy rõ các tinh linh tạo hình này bên trong tử cungở cõi tình cảm, vì hình như đây là nơi chúng làm việc. Có khi chúng trông như chớp sáng trắng đục, và lúc khác là những điểm màu lấp lánh di chuyển mau lẹ đó đây, cho cảm tưởng có hoạt động tíu tít. Mỗi chớp sáng có một tâm sáng hơn, với đường kính khoảng 1,6 mm, có hào quang tí hon bao quanh với đường kính to gấp ba lần cái tâm ở giữa, có màu sắc sáng chói. Tinh linh cũng hấp thu vật chất từ bên ngoài, hòa hợp chúng rồi thả vào bên trong vào bào thai. Sự hấp thu này diễn ra trong khoảng trống bên trong và chung quanh tử cung. Chúng ‘bắt' và hấp thu vật chất đi vào, cái bị cuốn hút tới thai nhi và với dòng lực. Rồi có hòa hợp tựa như sự tiêu hóa. Khi tiến trình này hoàn thành tinh linh trở lại bào thai, chìm sâu vào đó để thả chất liệu mới vào.

Có hằng trăm tinh linh bé tí như vậy làm việc với bào thai, tất cả có hình dáng như nhau và dùng chung một phương pháp. Tuy nhiên vật chất đi vào không phải đều đi ngang qua chúng, một số đi thẳng vào chỗ như đã tả, số khác đi vào vùng của tử cung và lửng lơ ở đó, cho đến khi tinh linh hòa hợp với chất rồi dùng nó để tạo bào thai.

Có một nốt nhạc rõ rệt nghe được trong vùng gần tử cung ở cõi tình cảm và ether. Nó như tiếng ậm ừ êm ái, giống như tiếng rì rầm gần tổ ong, vàphát ra chính yếu từ hạt nguyên tử trường tồn; nhưng bởi trọn thể phách của thai nhi và tinh linh làm việc cho thể cũng rung động cùng nhịp, tử cung tràn đầy âm thanh ether này.

Làn rung động ấy cho ra cả ảnh hưởng tạo hình lẫn che chở. Nó liên tục ảnh hưởng hình dạng của thể đang lớn, và cùng lúc giữ trong bầu ảnh hưởng của nó một tình trạng mà chỉ làn rung động hòa hợp, và vật chất ‘hòa điệu’ mới được thấm vào.

 

Chương VI
Thể Phách và Thể Xác Vào Tháng Thứ Năm

   Đến tháng thứ năm thì có tiến bộ thấy rõ trong mọi diễn biến mô tả ở những chương trước.Tâm thức của linh hồn bắt đầu xuống đến cõi tình cảm và trực tiếp ảnh hưởng đến sự tạo hình thể này. Sự thành hình và lớn mạnh của thể trí đã đủ mạnhkhiến linh hồn không cần chú ý đến thể nữa.

   Đường liên lạc giữa linh hồn và bào thai dần dần rộng hơn. Vào tháng thứ tư, dây này thấy như là một đường sáng màu xanh bạc, đường kính khoảng 3,8 cm, đến tháng thứ năm thì nó rộng tới 6,3cm. Khi từ cõi cao xuống nó  đi vào cơ thể người mẹ ở bên trái hơi, phía sau một chút, chỗ thay đổi từ đốt xương sống ngực sang đốt xương lưng. Nó chạm vào phần trên và cạnh ngoài của luân xa lá lách, rồi đi vào đầu của bào thai.

   Hình dạng thể xác là do cái khuôn là thể phách, mà tinh linh tạo ra, ấn định. Cái khuôn này một phần được tạo ra bằng lực tạo hình, do sự rung động của ‘âm thanh' mà hợp tử và hạt nguyên tử trường tồn phát ra, và phần khác do các vị Thần Karma, các ngài tạo nên khuôn theo nhân quả của cá nhân. Khuôn có sự sống riêng của nó, và là sự kết tụ nhân quả của người trong thể xác.Nó thụ động theo nghĩa nó không thể tự khởi phát hành động nào, nhưng cho ảnh hưởng tích cực lên sự tăng trưởng của bào thai.

   Một phận sự có thể có của khuôn ether là  bảo đảm lốian toàn cho bào thai, qua các chặng tiến hóa lập lại từ quá khứ cho tới hình dáng con người ngày nay. Chính cái khuôn thì có vẻ không trải qua những chặng ấy, dù vậy nó chỉ từ từ có hình dạng đứa bé nẩy nở trọn vẹn. Nó cũng có phận sự ngăn chặn, khiến cản được vài ảnh hưởng và tình trạng của người mẹ không cho tác động lên bào thai. Chẳng hạn người mẹ bị chấn động thì cái khuôn xử sự như là cái gối hay lớp bọc làm giảm chấn động. Tuy nhiên ảnh hưởng nào là nhân quả của linh hồn thì đi xuyên qua, và khuôn bị sự thông qua này của nhân quả làm biến đổi, và sự tăng trưởng của bào thai cũng bị y vậy.

   Cái khuôn đang được quan sát này nằm bên trong tử cung, và có đường nét của em bé tắm trong ánh sáng trắng. Nó được làm bằng chất ether, với bề mặt của nó bị ép lại thành một lớp bao phủ hay ‘da'. Ảnh hưởng tổng quát là như một em bé lung linh mầu trắng, tắm mình trong ánh trăng với độ sáng hơi không đều. Mặt bé còn mờ mờ chưa rõ nét.

   Trong tử cung thấy việc tạo nên thể xác đang diễn ra. Nhiều dòng lực tụ vào thể và có hoạt động tích cực của tinh linh tạo hình ở cõi trần, ether và tình cảm. Thai nhi thấy như là một nam châm, với các hạt vật chất liên tục bị hấp thu vào. Quan sát bằng thông nhãn thì các hạt này đi tới một điểm nơi chúng tụ lại rồi ‘an vị' vào chỗ trên thân xác. Các dòng lực, sinh ra do sự phát ra đầu tiên những rung động của ‘âm thanh’ đã nói, về sau thấy là có sức hấp dẫn vật chất này, và thu hút nó đến những nơi khác nhau của cơ thể, tùy theo loại vật chất và mức rung động của nó.

   Linh hồn cũng ảnh hưởng đến chất liệu qua đường sáng đã nói. Lực của linh hồn được thấy liên tục tác động vào đường sáng này, đặt để làn rung động riêng của nó lên những hạt đi vào. Vật chất đó lấy từ mọi phía, tràn về cơ thể người mẹ, bị cuốn vào những dòng lực bao ngay quanh bào thai, và được chúng mang tới vị trí trong thể đang lớn. Một dòng lực như thế dính vào thể phách của người quan sát, kết quả là chất ether trong thể của ông tương ứng với làn rung động của dòng ấy bị đem vào thể của bào thai.

   Phần cuối của giải sáng từ linh hồn tới người mẹ, tạo thành ‘quả tim' bằng chất ether-tình cảm bên trong bào thai, ở chỗ tương ứng với huyệt đan điền. Nhiều sinh lực của cơ thể cũng tụ lại đây, từ đó nó được phân phát ra để làm chất kích thích cho các tế bào thể xác lớn mạnh, làm cơ thể sinh động và tăng lực hấp dẫn nguyên thủy, cái lôi kéo vật chất ether đivào tử cung.

   Vào lúc thụ tinh, một chớp sáng từ mức tinh thần cao nhất của linh hồn đi xuống vào tinh trùng, cho nó động lực và năng lực tạo hình, và cho tiến trình sức mạnh như tả ở trên.

   Lực hấp dẫn được phát ra và bắt đầu hoạt động ngay, từ khi một thực thể được tạo hình do sự hòa hợp của hai lực âm và dương, của tinh trùng và trứng. Việc kết hợp hai lực này trong điều kiện đặc biệt, thí dụ với năng lực sinh học hay động lực đằng sau chúng, gợi nên một luồng lực từ cõi tình cảm  Trong trường hợp một linh hồn sắp đầu thai, lập tức tình trạng khơi nên việc hạt nguyên tử trường tồn thể xác, kho chất chứa kinh nghiệm từ những kiếp trước, được ràng buộc vào hợp tử.  Từ phút ấy lực hấp dẫn sẽ hoạt động. Nó thuộc về làn rung động của âm thanh và ‘kêu gọi' tinh linh các cấp, vì có nhiều loại rung động khác nhau được phát ra.

   Nó cũng cho sự bao bọc bằng ether mà hoạt động tạo hình sẽ diễn ra trong đó như đã tả. Khi chạm vào vật chất chung quanh, nó đặt mức rung động của chính mình lên vật chất, và do đó chuẩn bị vật chất ấycho tinh linh thu vào. Dòng lực tuôn chảy từ mứctình cảm tới mức ether tăng lên theo sự lớn dần của bào thai, để bầu ảnh hưởng của lực hấp dẫn dần dần nới rộng ra, cho đến trọn kích thước của tử cung.

   Với việc tăng trưởng tiếp tục xẩy ra, và những bộ phận chuyên biệt sắp thành hình, có một loạt những làn rung động mới được thêm vào cái đang có, và một loại tinh linh mới cùng chất liệu mới được thu hút vào.

 

Chương VII
Tháng Thứ Sáu

Khi sắp bước qua tháng thứ bảy, ta có thể thấy hoạt động ở mọi cõi rộn rã hẳn lên. Các tiến trình quan sát trước đâyđược thúc đẩy, và linh hồn cho thêm sinh lực riêng của nó vào các thể của mình.

Tụ điểm của tâm thức linh hồn từ thể hạ trí đã đi xuống vào thể tình cảm, và chẳng bao lâu rời đó để trụ vào thể sinh lực. Tới lúc này thể tình cảm có thể phục vụ linh hồn một cách đáng kể, như là vận cụ nhận chấn động nơi cõi tình cảm. Tác động của làn rung động và tâm thức qua nó sinh ra phận sự rõ ràng cho các bộ phận, và bắt đầu thấy đượcluân xa.

Linh hồn chính nó trở nên sống động, và đáp ứng hơn với những đụng chạm từ bên ngoài trên cõi của nó, khiến việc tiếp xúc và nhận được chút đáp ứng của nó thành dễ dàng hơn. Diễn biến thuận lợi của việc tạo hình và sự tăng trưởng của những thể mới, có vẻ làm linh hồn được tự do hơn để tiếp xúc với sự sống ở cõi thượng trí.

Linh hồn ta đang quan sát sắp tái sinh là một trong những trường hợp đặc  biệt, có đặc tính tốt lành, và ý chí mạnh mẽ.  Ta có thể thấy ở cõi thượng trí dáng người đẹp thật lý tưởng. Nét mặt và đôi mắt sáng rỡ, rạng ngời trong sự biểu lộ của chúng, toát ra lòngyêu thương và sự dịu dàng nhưng chói sáng uy lực. Hình căn thể mà não vật chất của tôi ghi lại, thì không là trọn hình người mà chỉ là khuôn mặt đẹp đẽ với đôi mắt -diện mạo của “Thượng Đế bên trong".

Vào thời điểm này, sự tiếp xúc gần gũi hơn mà tôi có thể có với với linh hồn, làm tôi chia sẻ được phần nào những tình trạng đi kèm với lần tái sinh đang tới. Ấn tượng chính thì giống như của người thức dậy sau một giấc ngủ dài, rất tươi tắn, thấy lại sức hoàn toàn, đầy sự tươi tỉnh, sống động và nhiều năng lực nhất. Linh hồn thức giấc như vậy có vẻ như duỗi người cao trọn mức của mình, khi anh hăng hái đứng trước ngưỡng cửa của lần tái sinh mới; trọn bầu không khí của anh là như buổi sáng sớm, rạng đông rực rỡ của mùa xuân. Lần tái sinh này đầy hy vọng lớn lao. Nhiều dự định đã chín mùi trong thời gian dài lặng lẽ nghỉ ngơi ở cõi trời. Tâm thức bừng sáng với các kế hoạch lớn về việc làm, và phương tiện tuyệt vời để tự biểu lộ, như tâm họa sĩ khi bắt đầu bức tranh mới, vật sẽ biểu lộ trọn vẹn ước vọng nghệ thuật của mình.

Ta thường thấy hiện tượng tâm thức có nhiều khả năng nơi cõi thượng trí trong lúc quan sát. Việc tôi có tiếp xúc riêng của mình với linh hồn, không hề ảnh hưởng đến sự tập trung của lực được hướng vào việc tạo hình các thể mới.

Đường sáng nói ở trên liên kết linh hồn với bào thai, được thấy phát ra ở  điểm trong căn thể tương đương với vị trí của huyệt đan điền ở thân người, rồi nó đi ngang qua tia sáng có hình quặng vào thể trí từ trên đỉnh, xuyên qua thể rồi vào thể tình cảm theo cách tương tự, rồi cuối cùng đi vào bào thai thể xác.

Lúc được sáu tháng rưỡi bề rộng của đường sáng này là khoảng 15 cm ở cõi hạ trí và cõi tình cảm, là 10 cm ở cõi ether và cõi trần. Lực sống và lực của linh hồn lóe sáng lên xuống dọc theo đường sáng này, vật ngoài việc là đường dây liên lạc giữa linh hồn và thân xác, còn là cách để giữ cho bốn thể của phàm ngã liên hợp trọn hảo với nhau..

Tâm thức giới hạn của não bộ làm tôi không diễn tả được mối liên hệ chính xác của bốn thể với nhau,và cách mà đường sáng này đi. Theo  đồ hình thì các thể có thể được tượng trưng như là xỏ xâu trên đường ấy, nó đi vào đỉnh rồi đi ra ở đáy của mỗi thể xong đi vào thể bên dưới, cho tới khi đến cõi trần. Tả như vậy thì đúng trên đồ hình, nhưng thực tế không phải vậy vì tuy bốn thể có vẻ như cái này nằm trên cái kia, nhưng cũng có việc cái cao chồng lên cái thấp, làm như nửa phần dưới của cái cao nằm chồng lên nửa phần trên của cái thấp kế đó. Có lẽ đây không phải là một cách diễn tả chính xác sự kiện theo không gian ba chiều. Nó là cách giải thích gần đúng nhất mà tôi có được trong tâm thức của  não bộ. Khi quan sát hiện tượng này theo nhãn quan và tâm thức ở cõi cao, thì cách hiểu của tôi xem ra thật đầy đủ.

Lối đi của đường sáng này ngang thể trí - nay lớn gần hết cỡ của nó - giữ cho việc từ hóa nằm bên trong đó. Trọn thể trí lớn hơn và sáng rực hơn nhiều so với tháng trước. Tới nay, nó cao khoảng 1,20 m. Có vô số hạt li ti đủ màu sắc chói sáng liên tục chuyển động tích cực, cả bên trong và trên bề mặt, sinh ra mầu trắng đục lấp lánh. Bề mặt của thể trí giống như tuyết dưới những tia sáng mạnh của ánh mặt trời, khi tinh thể  cho ra ảnh hưởng của lăng kính. Rõ ràng là nó đặc hơn so với tháng trước. Những hạt màu đượcphân chia đều hơn, và thể trí thấy đồng chất hơn.

Hình dạng con người trong đó đã rõ nét, thể trí bắt đầu có phần nào ngã thức rõ rệt. Bầu không khi tươi mát tuyệt vời, và sự thanh khiết trong sáng thấy ở căn thể cũng là đặc tính rõ ràng của thể trí.

Sắp tới tháng thứ bảy thì hoạt động lớn nhất của linh hồn được chú trọng vào thể tình cảm. Phương pháp làm việc cũng giống như cho thể trí, dù vật chất ở đây không đáp ứng bằng. Có một lỗ tròn mở rộng trên đỉnh của thể tình cảm, bìa của nó họp rõ rệt thành như vòng tròn của tâm hoa, với những cánh hoa nằm phẳng chung quanh, theo chu vi của thể tình cảm có hình bầu dục được thấy rất rõ.

Đường sáng đi vào lỗ tròn này có vẻ như là luân xa đỉnh đầu ở dạng sơ khởi của bào thai. Từ trên nhìn xuống nó có hình giống như hoa vạn thọ lớn. Cái lõi của đường sáng đi xuyên qua tâm ở giữa của 'hoa', đường kính của tâm hoa rộng khoảng 5 cm, còntrọn cái hoa rộng ít nhất 15 cm. Cánh hoa cong xuống dưới vào trong tâm, tạo thành một cuống dài đi xuyên qua đỉnh đầu của thể tình cảm vào trung tâm của nó, nơi có một điểm sáng rực tỏa ra ánh sáng vàng chói.

Từ điểm này lực đi xuống chia ra thành bốn tia sáng hình chữ thập đi theo các đường nối của sọ cứng. Dòng chính của lực linh hồn đi xuống sâu hơn ngang qua luân xa cổ họng, nơi có lực tập trung rồi vào huyệt tim và huyệt đan điền. Ba trung tâm lực này thấy được trong bào thai.

Ở thời điểm này linh hồn vẫn còn làm việc với thể tình cảm từ bên trên thay vì từ bên trong. Thể chưa có hay chỉ mới có ngã thức đôi chút trong đó, trong khi chuyệnđã bắt đầu ở thể trí.

Lúc này thể tình cảm chiếm khoảng từ vai xuống tới đầu gối người mẹ và gần như thẳng đứng chỉ hơi nghiêng một chút từ vai trái về đầu gối bên phải. Thể tình cảm của người mẹ vẫn tiếp tục nở rộng theo tỉ lệ bao luôn thể tình cảm nhỏ. Sự khác nhau và phân biệt giữa hai hào quang tức hai thể vẫn còn thấy rõ.

‘Em bé’ trong thể tình cảm ở trong tình trạng ngủ mơ màng, các thay đổi tâm thức hiện ra trong thể như các biến đổi mờ nhạt của màu trôi bên trên và xuyên qua thể. "Em nhỏ" thỉnh thoảng choàng dậy từ trạng thái này do động lực của linh hồn, và cựa mình nhẹ như ai đang ngủ bị đánh thức dậy phần nào. Những sinh hoạt mơ màng của tâm thức thể tình cảm đang lớn, cho ảnh hưởng chung giống như sự thay đổi mầu sắc chậm chạp của bầu trời lúc chiều tà. Cảnh nổi bật nhờ hình dạng thể tình cảm rực sáng như mặt trời chiếu, khixuống thấp gần đường chân trời.

Bào thai vật chất có vẻ như là cái neo cho linh hồn. Sự tiếp xúc  trực tiếp giữa hai bên cho ảnh hưởng ổn định lên các thể thanh, làm chúng ‘liên hợp’ và chịu sự kiểm soát của linh hồn. Bào thai xác thân cảm nhận hành động của lực từ những cõi cao như là động lực liên tục làm chuyển động.

Tâm thức của thể xác, thể sinh lực và thể tình cảm là một đơn vị chung vào giai đoạn phát triển này, ý thức trong và ngoài của tâm thức chung ấy phần lớn ở cõi tình cảm.

Nơi cõi trần dòng lực tượng trưng cho tâm thức của linh hồn tập trung ở trên và trong đầu bào thai, từ đây nó đi xuống xương sống như là ánh sáng vàng nhạt gần như trắng. Quan sát sự khác biệt giữa lực này, và đường sáng là lựccủa linh hồn hay lực sống đi từ thể tình cảm vào đầu, xuống cổ họng, tim và sau rốt tận cùng ở huyệt đan điền, là điều thú vị. Dòng lực sau thấy rõ trong bào thai, chảy xuôi với dòng não tủy đến tận đốt xương sống cổ của thai, cả hai dòng cùng đi xuống qua đó. Dưới mức này, hai dòng theo hai hướng khác nhau.

Ta có thể thấy máu đập theo nhịp tim của bào thai, cái sau như có một cảm xúc mơ hồ là ấm áp và lừ đừ thoải mái. Bào thai máy động khi động lực có ý thức linh hồn, sau khi đi xuyên qua thể trí và thể tình cảm, chạm vào thể xác lần đầu tiên. Việc đầu thai vào thể xác có thể nói là bắt đầu từ phút này, vì khi ấy linh hồn lần đầu tiên liên lạc có ý thức với với thể xác của mình.

 

Chương VIII
Tháng Thứ Tám

Quan sát vào tháng thứ tám thấy hoạt động đã tăng lên mức đáng kể, lực sống của linh hồn thấy rõ có biểu lộ đầy đủ hơn trong cả ba cõi. Linh hồn hướng tâm thức mình nhiều hơn vào cõi trần. Tới lúc này nó đã đặt tâm điểm cho tâm thức mình bên trong cái phàm nhân mới, thành ra nó bớt ‘ở ngoài’ như tám tháng trước đó. Điều này có vẻ làm giới hạn hơn ảnh hưởng của nó, ngay cả sau khi phàm nhân đến tuổi trưởng thành.

Nói cách khác, linh hồn đặt mình nhiều hơn vào phàm nhân chỉ một tháng trước khi sinh, so với bất cứ lúc nào khác trong trọn kiếp. Dù vậy, vẫn có tự do lớn lao cho tâm thức và hành động của linh hồn ở cõi thượng trí. Đường sáng bây giờ rộng khoảng 30cm khi nó rời căn thể, và hình người chói lọi của Thượng Đế bên trong thấy đang chăm chú nhìn xuống thể xác của trẻ.

Tâm thức của linh hồn trụ vững vàng trong cả hai thể trí và tình cảm, và xuyên thấu qua những cảnh thấp nhất của cõi tình cảm để vào thể sinh lực, lúc này lực của nó thấy tự do tác động lên thể sau.

Thể trí và thể tình cảm có vẻ là đã hoàn thành, thấynhư chúng rất giống nhau. Cả hai có ngũ sắc, màu trắng xà cừ lấp lánh trên bề mặt, và bao quanh có những tia sáng phát ra cùng màu. Những hạt nguyên tử tạo nên thể lại rung động còn nhanh hơn nữa, và thấy có chuyển động liên tục bên trong cả hai thể.

Đường sáng từ linh hồn thấy đi vào lõm hình ống phễu ở đỉnh của thể trí, đi vào đầu của thể trí nơi chẩm trước trên đỉnh đầu của em bé (anterior fontanelle), rồi nở rộng để bao trọn cái đầu. Thể trí thành dài hơn, cao khoảng 1,5 m, còn hình người bên trong ‘lớn’ lên thành 90 cm.

Tuy thể này xem ra đã tạo xong, nhưng nó không có hiểu biết bên ngoài về môi trường của nó, hay có thể được dùng như một vận cụ riêng biệt. Như đã nói, tụ điểm của tâm thức vào lúc này là ở cõi tình cảm - ether, chỉ đi ngang qua và làm linh hoạt thể trí mà thôi.

Mức phát triển tương xứng cũng xảy ra ở cõi tình cảm, thể lớn dần cho đến khi to vào khoảng từ vai người mẹ xuống cho đến giữa đầu gối và mắt cá chân.

Thiên thần thể tình cảm kết hợp rất mật thiết với thể. Vào lúc có quan sát, ta thấy ngài ở đằng sau người mẹ bao bọc một nửa phần thể tình cảm mới trong hào quang của thiên thần, nó nhô ra như cái trứng to nhiều màu sắc.

Tâm thức của ngài trụ vào thể, ngài chăm sóc hết mình cho nó, ôm ấp và bảo vệ nó khỏi các ảnh hưởng từ bên ngoài. Trọn thái độ của ngài là của ai đang tạo một tác phẩm nghệ thuật hết sức mỏng manh, một vật thật hiếm,rất quí giá, và tuyệt diệu cần phải có cố gắng vượt bực, chăm chút hết lòng và luôn cả tôn kính, để làm cho toàn hảo.

Ngài cũng giúp người mẹ tương tự như vậy. Hào quang xinh đẹp của ngài phủ lên bà, như áo choàng hay cái khăn bao trùm bà từ đằng sau. Nó có màu xanh dương đẹp đẽ, bao lấy cả hai thiên thần và người mẹ như áo trùm mà là hào quang, có mũ phủ lên thiên thần làm ngài giống như Đức Mẹ (Our Lady). Ánh sáng xanh chiếu lấp lánh làm phần trên hào quang của ngài đẹp tuyệt vời, như thể ngài mặc áo choàng xanh với ánh sáng linh động.

 

Chương IX
Đức Mẹ (Our Lady)

Diện mạo thiên thần biến đổi thấy vào tháng thứ tám là do lực từ cõi cao tuôn xuống, đi qua thiên thần vào người mẹ rồi con. Cố gắng tìm hiểu nguồn của lực đưa tôi lên mức tâm thức thường nằm ngoài tầm của tôi, và  ở những cõi tinh thần đó, ảnh hưởng của nó làm tôi cảm biết sự hiện diện của Vị nhân cách hóa nguyên lý nữ của thiêng liêng, mà người xưa gọi là nữ thần Isis, Venus và Ishtar, còn ngày nay gọi là Đức Mẹ Đồng Trinh Mary. Dù chưa có kinh nghiệm và nhãn quan còn bất toàn, tôi vẫn thấy đượcphần nào vẻ mỹ lệ và tuyệt mỹ chói lọi của ngài.

   Ngài rực rỡ và đẹp đẽ không sao tả được, chiếu rọi như là hiện thân của nữ tính toàn thiện, cực điểm của  mỹ lệ, dịu dàng, tình thương. Ngài đầy nét vinh quang thiêng liêng. Một niềm vui vẻ rạng rỡ, nỗi ngất ngây với niềm vui tinh thần chiếu qua đôi mắt tuyệt vời của ngài.

   Dù ngài có sự cao quí tột cùng,  tia nhìn của ngài vẫn hiền hòa êm ái, và bằng cách nào đó đầy tiếng cười vang sung sướng của trẻ con, và sự hài lòng thâm trầm và bình tĩnh của tuổi trưởng thành.

   Hào quang rực rỡ của ngài tuy êm nhẹ, nhưng màu sắc rực sáng tạo thành quầng chói lọi  quanh ngài, che phủ mà cũng lộ ra nét yêu  kiều bất tử của Đức Mẹ. Mầu xanh dương đậm, trắng bạc, hồng, vàng ánh và xanh lá cây nhạt, màu của lá non vào đầu xuân, liên tục tuôn chảy qua khắp áo choàng hào quang của ngài, hết lượn sóng này tới lượn kia đầy màu sắc và ánh sáng sống động. Thỉnh thoảng màu xanh đậm của ngài phủ nguyên người, được làm sáng lên do ánh sao trời và những tia mầu bạc sáng rỡ.

   Các thiên thần hộ mạng là phụ tá và là kẻ đưa tin cho ngài. Đức Mẹ hiện diện ngay từ đầu qua những vị này để trông chừng cả mẹ lẫn con. Sự bình an, tình thương và lòng từ sâu đậm của ngài bao phủ họ, việc xẩy ra do chuyện làm mẹ thiêng liêng gần tới, và sự huyền diệu của việc sinh nở. Nay khi giờ phút chào đời sắp đến, Đức Mẹ tới gần hơn nữa khiến cho các thiên thần phụ tá của ngài trở nên càng lúc càng giống ngài, khi ngày càng có nhiều lực sống và tâm thức  của ngài biểu lộ trong và qua họ. Ngày lại ngày Đức Mẹlại gần hơn, cho đến khi có sự Hiện Diện thực sự của ngài ở đó.

   Thêm vào trợ giúp mà sự Hiện Diện của ngài mang lại, cho cả linh hồn người mẹ và con ở hết mọi cõi, và ảnh hưởng  hòa hợp cùng  bình an mà nó tỏa ra, ngài theo sát những thay đổi về tình cảm và tâm trí của người mẹ, đi vào bà để cảm nhận hết mọi kinh nghiệm mà bà trải qua, luôn cả chia sẻ nỗi đau đớn với bà. Đồng thời ngài giúp làm tăng lên sự mở rộng tâm thức, mà mỗi người mẹ đều càm biết một mức nào đó trong hành động hy sinh của bà.

   Những sự mở rộng này có nghĩa là có tăng trưởng cho cả cá nhân và nhân loại. Đức Mẹ nhìn vào nhân loại trong tương lai, khi hôn nhân và việc làm cha mẹ được nâng cao giữa con người, vào lúc chúng có chỗ đúng đắn và được quí chuộng trong đời người như là chuyện thiêng liêng tinh thần, để có thể chỉ nhờ điều này mà con người được sanh ra thanh khiết như ngài thanh khiết, và biểu lộ phần nào nét toàn thiện thiêng liêng của ngài.. Khi đó thể xác sinh ra sẽ là đền thờ thích hợp cho Thượng Đế đang tiến hóa đến ngụ bên trong chúng.

   Khi tham thiền  về ngài và nỗ lực đến bìa tâm thức hùng mạnh của ngài, tôi ý thức là ngài liên tục làm việc để gây ấn tượng về các lý tưởng cao cả này lên con người. Ngài là một với tất cả phụ nữ trên trái đất này, tự nguyện nhận hết vào mình các đau khổ của họ, chia sẻ với họ sự đau đớn khi sanh nở, chịu đựng sự thô trược và tàn bạo của cuộc sống làm chai cứng tinh thần của ai kém may mắn. Ngài nhận tất cả những điều này vào người, để có thể chia sẻ mật thiết hơn với các chị em của ngài trên trần lòng từ thiêng liêng, sức mạnh, sự thanh khiết hoàn toàn, sự hiện diện sống động của ngài, và bancho họân lành của Đức Mẹ thế giới.

   Tôi cũng thấy ngài chia sẻ trọn niềm vui của tình yêu đầu đời; tất cả niềm hạnh phúc của tình yêu thực sự giữa nam và nữ có âm vang lập lại trong tim ngài, và Đức Mẹ thêm vào đó tình yêu toàn mỹ và niềm hoan lạc nồng đậm từ biển vô bờ của ngài. Ngài tìm cách tăng lên, ban phước lành, làm phong phú hơn, thanh tẩy mức sâu thẳm kỳ diệu của tình yêu mà trái tim người nữ có thể cho ra. Ngài biết mọi thèm khát thường xảy ra sai lầm và tìm cách chuyển hóa, nhận sự độc hại vào tim mình để có thể biến đổi nó thành tình yêu chân thật, rồi gửi ra ngoài như là sức mạnh để nâng cao phái nữ trên thế giới, sự tán dương tình yêu nơi con người, làm trong sạch tính thiêng liêng của việc làm cha mẹ.

   Và như thế ngài làm tròn phần việc to lớn của mình trong Thiên Cơ, và đứng vào vị trí của ngài trong Thiên Đoàn gồm những Đấng, sau khi học hỏi để sống trong Vĩnh Cửu, vẫn tự khiến mình chịu sự kềm tỏa của thời gian.

 

Chương X
Tháng Thứ Tám, tiếp theo

   Tiếp tục cuộc nghiên cứu diễn tiến việc đầu thai vào tháng thứ tám, sự tạo cơ chế cho tâm thức ở cõi cao đến nay đã hoàn thành tới đầu của thể tình cảm, và dĩ nhiên là nó không thể hoạt động ở mức thấp hơn cho đến khi xác thân được phát triển đầy đủ.

   Đường sáng ở giữa đi vào đầu nơi có thóp mềm, phần còn lại của đường tràn xuyên qua và bên trên những phần khác của xác thân. Khi phần lõi tới chỗ tương ứng với tùng quả tuyến - pineal gland, nó nở rộng thành như một bầu gồm cả tuyến não thùy - pituitary gland và tùng quả tuyến.

   Vào giai đoạn này các hốc não đã sụp, và hai tuyến trên thành hình trọn vẹn. Bên trong bầu có dấu hiệu cho thấy có ba đường lực ở cuối của đường sáng đi xuống. Hai đường đi vào hai tuyến này, còn đường thứ ba chảy tới đốt xương sống cổ.

   Thể sinh lực của tuyến não thùy có dạng như nụ hoa tulip, với cánh hơi cong nhẹ ra ngoài, ở đỉnh tạo thành một lỗ cho lực đi xuyên qua. Đường sáng chiếu mạnh hơn bên trong phần cuối này, và bên trong thể sinh lực ta thấy đường nét của luân xa giữa hai chân mày nơi bào thai, trông hơi giống cái que rỗng chứa đầy lõi, và dòng lực không thể tiếp tục đi xuống qua đó được. Có một màn bằng chất ether hay da bọc ngoài của tuyến, đóng lại ở điểm mà luân xa rời tuyến não thùy.

   Tùng quả tuyến cũng trong tình trạng giống vậy, nhưng sáng hơn và tạọ ra kết quả như lưỡi lửa nhọn thấy có chút màu xanh bên trong. Đường đi bằng ether dẫn từ hai trung tâm lực này đến cái thóp bị chất ether đóng lại, theo cùng cách như ở luân xa giữa hai chân mày, tuy ở đây các hạt linh động hơn, và phần lõi bớt đặc, làm như sự sống của linh hồn từ hóa nó, cho ra làn rung động  mau hơn. Những hạt bên trong cách biệt với phần còn lại của thể sinh lực bằng lớp tường ether của ống.

   Các dòng não tủy là dòng lực thứ ba chưa được chảy tự do xuống xương sống.

   Từ đáy của bầu ở giữa trong đầu, có vô số nhánh rễ li ti kéo dài xuống tới phần thể sinh lực của cổ họng.Lực tuôn qua những nhánh này xuống cổ họng đến tim, ở đây có một bầu khác nhỏ hơn nhiều nở rộng ra như bầu trên đầu, và chiếm khoảng một phần tư quả tim.

   Ta thấy rõ các luân xa nơi thể tình cảm vào giai đoạn này, và ở vào vị trí tương đối chồng lên bốn trung tâm lực nói ở trên của thể xác, nhưng chỉ có tùng quả tuyến và luân xa đỉnh đầu có vẻ như đã được hoàn chỉnh và nối kết hoàn toàn. Dầu thế vào lúc này, chưa có sự liên kết cơ quan với nhau hay có dòng lực nào. Các luân xa thể sinh lực nằm bên trong vùng từ lực của các luân xa thể tình cảm, nhưng chưa hoạt động như sau khi sinh.

 

Chương XI
Một Giờ Trước Khi Sinh

Lần quan sát chót là vào lúc một tiếng rưỡi đồng hồ trước khi sinh, cho ra phần lớn mô tả dưới đây. Tới phút này các thiên thần cao và thấp của cõi hạ trí, bắt đầu rút lui khỏi việc liên kết với linh hồn và các thể mới của nó; công việc của thiên thần đã xong nên không còn cần sự hiện diện của các ngài nữa.

   Thiên thần cõi tình cảm cũng rút lui, nhưng hình tư tưởng của Đức Mẹ vẫn có đó. Nó không còn linh động do tâm thức của thiên thần tạo hình cõi tình cảm, mà do chính Đức Mẹ. Hình dáng ngài nay tách ra khỏi cả mẹ và con và đứng về phía trái gần đầu giường, cúi xuống người mẹ với thái độ dịu dàng và che chở vô cùng.

   Sự Hiện Diện của Ngài có ảnh hưởng là ngăn, không cho thể trí và tình cảm của người mẹ, rung động đáp ứng với sự đau đớn quá mức mà tâm thức trong thể xác có thể chịu được. Sự đau đớn không thể giảm quá một mức nào đó, nhưng ảnh hưởng của nó trên các thể thanh được giảm tới mức tối thiểu.  Thực vậy, nhờ sự Hiện Diện này tâm thức của bà mẹ được giữ thăng bằng và bình tĩnh, dù có đau đớn dữ dội trong thể xác. Mẹ và bé được ôm ấp trong bầu lực tinh thần và sự rực rỡ, chiếu sáng từ sự Hiện Diện uy nghi của Ngài; và ngài giữ họ như thế cho đến khi việc sanh nở được hoàn tất.

   Trên cõi thanh căn phòng thấm tràn một bầu không khí bình an và thánh thiện. Các thiên thần phụ giúp Đức Mẹ đều có mặt, mẹ và em bé được tình thương và ân lành của ngài chiếu rọi. Khi giờ phút sanh nở đến gần, hình dáng của Ngài bắt đầu rực lên với nét sáng chói gia tăng, và kích thước hóa lớn hơn, với tâm thức của ngài biểu lộ nhiều hơn trong hình, và một phần của sự sống, ánh sáng và ân lành của ngài đi xuống mẹ và em bé nhiều hơn.

Khi sự sinh nở hoàn tất thì ngài rút lui. Tuy nhiên hình dáng ngài tan rã chậm chạp, sự việc có thể kéo dài từ tám cho đến mười tiếng đồng hồ.

Sau khi các thiên thần đã rút lui và việc sinh nở đã bắt đầu, sự tiếp xúc giữa linh hồn với thể xác giảm đi thấy rõ, rồi ngay sau khi vừa sinh xong thì nó hoàn toàn mất hẳn. Ta có thể cho là việc những thể thanh của em bé được bao trọn trong các thể của người mẹ, và được thiên thần che chở, cho phép linh hồn có tiếp xúc gần với thể xác mới của mình hơn là nó có được, sau khi thể xác sinh ra.

   Linh hồn cảm biết sự thay đổi này thật rõ rệt, có cảm giác mất mát, nhận ra là mình hoàn toàn không thể hoạt động có ý thức trong thể mới này, hay ảnh hưởng nó. Sự kết nối giữa linh hồn và em bé vẫn còn thấy rõ ngay trước khi sinh, và đường sáng vẫn có thể thấy đi xuyên qua thóp mềm trên đỉnh đầu. Dầu vậy đường sáng nay gồm các từ lực cõi cao và năng lực prana nhiều hơn là tâm thức linh hồn, mà vào lúc này không đi xuống thấp hơn cõi tình cảm. Thể xác và thể sinh lực lúc này cũng không thể truyền lực của tâm thức linh hồn.

   Sau khi sinh, linh hồn phải dần dần học cách thu thập cho mình những gì - mà sự hiện diện của các thiên thần, và việc đắm chìm trong hào quang của mẹ - đã khiến nó có thể làm được lúc còn trong bụng mẹ.

   Quan sát cuối cùng đó kết thúc sự nghiên cứu của tôi về đề tài quan trọng này. Tôi nhận biết cần có thêm nghiên cứu trước khi các nguyên lý mà cuộc khảo sát này đề nghị, có thể được xác định hoàn toàn và hiểu rõ. Sự nghiên cứu vì vậy bị giới hạn và không trọn vẹn. Tôi đưa nó ra như thế này với hy vọng là các họcviên khác sẽ tìm tòi, khảo sát thêm, và tôi lại có đặc ân được quan sát nhiều trường hợp nữa, về thời kỳ quan trọng nhất này của cuộc đời.

 

Đức Mẹ Thế Giới

Trong lúc nghiên cứu về sự sống của thai nhi, tôi luôncó ý thức về sự hiện diện và việc làm củamột loại thiên thần, phụ giúp vào hai việc là tạo các thể mới, và dẫn dụ Chân nhân sắp tái sinh đi vào các thể này. Tuy lúc đó tôi chưa nhận biết, nhưng nay tôi tin rằng trongviệc đi xuống nhập thế vào mỗi lần đầu thai, các thiên thần đóng vai trò cho mỗi cá nhân như là các thần linh tổ tiên loài người (gọi là Pitris trongThe Secret Doctrine) đã làm cho nhân loại.
Tìm hiểu về các ngài thì thấy rằng thiên thần là tác nhân cho một Đấng Cao Cả chủ trì, và điều khiển mọi diễn trình làm mẹ trong khắp thiên nhiên. Kinh sách xưa liên kết Đấng này với Nữ tính của Trời, mà ngài là sự biểu hiện và là đại diện.
Vật chất hay chất liệu trong vũ trụ gọi là prakriti, là lòng mẹ mà trong đó mọi thế giới được thai nghén, mọi vật từ đó được sinh ra và trở về nơi ấy. Đức Mẹ Thế Giới đúng thực là chất liệu nguyên thủy này của vũ trụ khi mới phân hóa từ vật chất gốc là mulaprakriti; vì nằm bên trong đó là mầm mống của mọi sinh vật và năng lực bảo tồn và sinh sản.
Khi sự phân hóa xẩy ra vào buổi đầu của vũ trụ theo sau sự hỗn mang, ba tính chất hay ba ngôi là Sáng Tạo, Bảo Tồn và Hủy Diệt hay Chuyển Hóa, thành tự biểu lộ và tích cực sáng tạo. Khi đó các tính chất này có đại diện là các đấng thiêng liêng, là thành quả cao nhất củanhững chu kỳ sinh hoạt hay Manvantara trước, mà thể của các ngài ‘là tinh chất của ánh sáng thiêng liêng cao hơn’. Những đấng thiêng liêng với bản chất như vậy khi phát sinh từ chất liệu gốc, điều khiển cuộc tiến hóa theo các luật bất biến. Các ngài khôngphải là những đấng mà trí ngườicó thể ý niệm được. Có lẽ các ngài có thểđược mô tả như là chính Linh Hồn của linh hồn của vũ trụ.
Nguyên lý Nữ được biểu lộ khắp vũ trụ, và đặc tính bảo tồn cùng sinh sản linh hoạt trong khắp thiên nhiên. Ở cõi trần, nó biểu lộ cả hai như là cực của hóa chất, cực âm và như là nữ tính trọn thế giới. Nó tích cực bên trong mỗi tế bào riêng rẽ cũng như là trong mỗi sinh vật đa bào. Không có nó thì khôngcó gì thụ thai được và sinh ra, khôngcó gì được bảo tồn và khôngcó gì đượctruyền giống. Nơi cõi cao, nguyên lý Nữ có tầm quan trọng ngang hàng, nơi con ngườinó là căn thể, là cõi lòng trong đó sinh ra vị Đạo sư, vị Thượng Đế sắp thành.
Tất cả các nước đều nhìn nhận, tôn trọng và thờ phượng cái nguyên lý Nữ này. Mọi tôn giáo ngoại môn đều nhân cách hóa nó thành Nữ thần, Đại thiên thần Mẹ của các vũ trụ, giống dân, quốc gia và con người. Những nhân cách hóa của Đức Mẹ Thế Giới là trong số các ý niệm cao quí nhất của trí con người, mà khi tạo ra, tôn kính và phục vụ chúng, trí năng đạt tới mức cao nhất củanó về lý tưởng, lòng sùng mộ và sự tự biểu lộ qua tôn giáo.
Khi lòng sùng kính, hiến dâng và thờ phượng ấy được dâng lên Đức Mẹ Thế Giới, chúng đáng được tôn trọng sâu xa nhất và nên được khuyến khích - tuy ta phải luôn luôn tránh sự mê tín dị đoan tệ hại. Bởi nhờ lòng hiến dâng của mình, lực trên cao có thể xuống với con người; nhờ ước nguyện, tình thương cao cả nhất và lời khẩn cầu, ta cảm nhận được cả Chân nhân của mình và các đấng chăm lo cho nhân loại.
Thi dụ lý tưởng về Đức Mẹ đã và vẫn còn có giá trị vô kể trongviệc an ủi, thanh tẩy và khiến con người thành cao đẹp hơn. Qua lý tưởng ấy, nhận thức về Tình Mẹ của Thượng Đế được mang vào tầm của hằng triệu người bị đau khổ và có ước nguyện. Những ý niệm về đức Quan Âm, Isis, Ishtar, Parvati và các thánh mẫu khác cũng được tương tự đặt ra dựa trên sự hiện hữu, bản chất và vai trò của cùng một Đấng Cao Cả. Có lẽ vì tôi theo Thiên Chúa giáo, và những trường hợp mà tôi nghiên cứu thì người mẹ cũng là người Thiên Chúa giáo, nên hình dáng như Đức Mẹ hiện ra trong trí tôi.
Một người bạn Trung Hoa tôi quen thì nói:
– Tôi có 13 con và mấy lần đức Quan Âm đã cứu mạng tôi. Khi sự đau đớn do sinh nở thành quá sức không thể chịu được và tôi có thể chết, tôi thấy ngài đứng cạnh giường. Ngài đưa tay về hướng tôi và lập tức cơn đau dịu xuống và sự ổn định, vững vàng có trở lại. Chuyện xẩy ra không phải một lần mà nhiều lần.
Qua đại diện là các thiên thần, sứ giả của ngài, chính Đức Mẹ hiện diện mỗi lần có trẻ sinh ra tuy không được thấy hay biết. Đức Mẹ Thế Giới của địa cầu được biết là một Vị Đại Thiên thần, là đại diện và hiện thân trên trần của Nữ tính của Thượng Đế. Ngài cũng được xem là một bậc Đại Sư trong chính phủ huyền bí quản trị thế giới. Mọi đặc tính của nữ giới và người mẹ chiếu sáng trọn hảo nơi ngài.
(Sách vở ghi Đấng Cao Cả hiện đảm nhiệm chức Đức Mẹ Thế Giới có kiếp trước là đức Mary, Mẹ đức Jesus;sau khi qua đời ở kiếp đó ngài chuyển sang đường tiến hóa của thiên thần.)

Ghi Chú:
Bạn có thể đọc giải nghĩa về các danh từ TTH dùng trong bài này ở mục Từ Ngữ TTH trên trang web PST.